Quý II “tươi tắn” của kinh tế Mỹ
Bộ Thương mại Mỹ vừa qua đã công bố GDP quý II/2023 tăng 2,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Tốc độ này cao hơn quý I và lớn hơn dự báo của các nhà phân tích trong khảo sát của hãng dữ liệu Refinitiv đến 1,8%, cho thấy nền kinh tế Mỹ đang có những dấu hiệu của sự hồi phục.
Chi tiêu tiêu dùng chỉ tăng 1,6% trong quý II, thấp hơn mức 4,2% trong quý I nhưng vẫn đủ để thúc đẩy tăng trưởng vì chiếm phần lớn hoạt động kinh tế và góp gần một nửa tổng mức tăng GDP.
Người Mỹ đang được hưởng lợi từ một thị trường lao động mạnh mẽ, với mức tăng lương gần đây đã vượt qua lạm phát. Bộ Lao động cho biết các yêu cầu trợ cấp thất nghiệp đã giảm 7.000 đơn vào tuần trước, xuống còn 221.000. Đây là mức thấp trong lịch sử, tương đương mức trung bình năm của 2019.
Cùng với đó, đầu tư kinh doanh tăng trưởng 7,7% trong quý II, tăng mạnh so với mức 0,6% trong quý đầu năm. Hai yếu tố này kết hợp lại đã đánh bại dự báo trước đó của các nhà kinh tế về một cuộc suy thoái sẽ bắt đầu vào giữa năm do các chính sách kiềm chế lạm phát từ FED.
Kết quả tăng trưởng quý II làm tăng thêm triển vọng “hạ cánh mềm” của nền kinh tế Mỹ trong năm 2023 này. “Hạ cánh mềm” là một khái niệm được nhắc đến nhiều trong thời gian gần đây, ý chỉ nền kinh tế giảm tốc một cách chậm rãi và ổn định thay vì rơi mạnh và gây ra suy thoái.
Chúng ta đã vượt qua ‘cơn nguy kịch’. Tình hình nền kinh tế hiện đã cân bằng giữa khả năng suy thoái và không suy thoái
Amy Crews Cutts, Chuyên gia kinh tế của hãng tư vấn AC Cutts & Associates, bình luận
Hôm 26/7, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) đã nâng lãi suất điều hành thêm 25 điểm cơ bản (0,25%), đưa lãi suất tham chiếu vào khoảng 5,25-5,5% – cao nhất kể từ năm 2001. Chủ tịch Fed Jerome Powell nói niềm tin về khả năng hạ cánh mềm đã tăng nhưng FED vẫn sẽ xem xét việc gia tăng lãi suất thêm một lần nữa trong năm 2023 này để ổn định nền kinh tế.
Các chuyên gia tại FED đã không còn dự đoán về một cuộc suy thoái như những gì họ đã dự đoán hồi đầu năm.
Tốc độ tăng trưởng của kinh tế Mỹ đã gần tương ứng với tốc độ được ghi nhận trong thập kỷ trước khi đại dịch xảy ra. Nhiều nhà kinh tế vẫn dự báo tăng trưởng của Mỹ sẽ giảm tốc vào cuối năm nay và năm 2024, nhưng nỗi lo suy thoái kinh tế đã vơi đi. Conference Board cho biết niềm tin của người tiêu dùng Mỹ tiếp tục được cải thiện trong tháng 7. Họ đã ít lo lắng hơn về suy thoái kinh tế và nhiều người bày tỏ sự lạc quan về tương lai.
Các doanh nghiệp nhỏ cũng cho biết sức ép cũng đang dần vơi bớt. Vào tháng 7, 37% doanh nghiệp nhỏ họ tin rằng nền kinh tế sẽ xấu đi trong 12 tháng tới, mức tốt nhất kể từ tháng 2/2022, theo công ty tư vấn Vistage Worldwide.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế cho biết tăng trưởng kinh tế ở Mỹ và toàn cầu trong năm nay có thể sẽ mạnh hơn so với ước tính trước đây.
Vì sao dự báo suy thoái tại Mỹ lại trở nên kém chính xác, khiến giới chuyên gia và doanh nghiệp ngày càng khó phán đoán?
Về cơ bản, đặc điểm và bối cảnh kinh tế hiện có nhiều điểm chưa có tiền lệ trong các chu kỳ tăng trưởng và suy thoái trước đây của siêu cường này.
Theo Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia Mỹ, tổ chức học thuật xác định chu kỳ kinh doanh của nước này, Mỹ đã có 12 lần mở rộng và 13 lần suy thoái kể từ năm 1945. Cho đến năm 1981, quá trình mở rộng kéo dài trung bình 3,7 năm và thường kết thúc do FED tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát.
Nhưng vào năm 1981, Chủ tịch FED khi đó là Paul Volcker đã chủ độg tạo ra một cuộc suy thoái để kéo giảm lạm phát trong thời gian dài, cuối cùng ổn định ở mức khoảng 2%. Năm 1984 và một lần nữa vào năm 1994, FED đã điều chỉnh tăng lãi suất trước khi lạm phát thực sự bùng phát và nền kinh tế Mỹ đã có 2 lần tăng trưởng liên tục 6 năm nhờ toàn cầu hóa, tăng trưởng lực lượng lao động và tiến bộ công nghệ.
Bốn lần kinh tế mở rộng kể từ năm 1981 kéo dài từ 6 đến gần 11 năm. Thay vì lạm phát, 4 lần này thường kết thúc bằng một rạn nứt nào đó, ví dụ như sự kiện “bong bóng dot-com” vào 2001, vỡ “bong bóng nhà đất” năm 2007. Kỷ lục tăng trưởng kéo dài gần 11 năm kết thúc vào tháng 2/2020 là cá biệt, không phải do lạm phát hay khủng hoảng tài chính, mà do đại dịch và các đợt phong tỏa diện rộng. Nếu không có COVID-19, đà tăng này có lẽ vẫn sẽ tiếp tục kéo dài.
Vậy chu kỳ hiện tại giống với các chu kỳ trước hay sau năm 1981? Nhìn bề ngoài, nền kinh tế đang rất giống chu kỳ của những năm 1960 và 1970 ở điểm là quá nóng và bị ảnh hưởng bởi lạm phát. Nhưng FED chưa bao giờ “hạ cánh mềm” khi lạm phát vượt xa mục tiêu và thị trường lao động chặt chẽ như hiện nay.
Nhưng nền kinh tế cũng có điểm giống với các chu kỳ sau 1981 là xuất hiện các rạn nứt trong vài lĩnh vực do lãi suất tăng. Năm nay, đã có 5 ngân hàng Mỹ sụp đổ nhưng lại không “lan tràn” và cũng không gây nên nhiều tác động quá đáng kể.
Trong một báo cáo tuần này, các nhà kinh tế của Bank of America cho biết phần lớn rủi ro tăng lãi suất đã được FED hoặc các ngân hàng hấp thụ thông qua việc mua trái phiếu kho bạc. Tin tốt là “FED có nhiệm vụ, công cụ, sự nhạy bén, dữ liệu và kinh nghiệm để giải quyết những căng thẳng mới nổi trong hệ thống ngân hàng”, ngân hàng này đánh giá.
Do đó, dù có dấu hiệu giống với các đợt suy thoái sau 1981 nhưng sự mất cân bằng dẫn đến khủng hoảng tài chính đã được FED “tiên liệu”.
Nguồn cơn của lạm phát, nguyên nhân khiến FED phải “can thiệp” cũng khác. Trong quá khứ, lạm phát thường được gây ra bởi cầu vượt cung. Lần này, một thủ phạm lớn hơn là nguồn cung hàng hóa, phương tiện vận chuyển, hàng hóa, lao động, tất cả bị gián đoạn sau đại dịch và xung đột Nga – Ukraine.
Nguồn cung đang hồi phục và nhu cầu lao động tăng trưởng mạnh mẽ cũng là một yếu tố dẫn đến sự phục hồi của nền kinh tế Mỹ nói riêng và tòa cầu nói chung.
Xét riêng tại Mỹ, tỷ lệ dân số từ 25 đến 54 tuổi đang làm việc hoặc đang tìm việc hiện cao hơn so với trước giai đoạn suy thoái. Mặc dù thị trường lao động đang tiếp tục được thắt chặt, vòng xoáy giá – lương vẫn chưa rõ ràng. Cũng không giống như trước năm 1981, kỳ vọng lạm phát dài hạn của công chúng vẫn đang ổn định, ở mức khoảng 2% đến 3%.
Lạm phát cũng khó kiềm chế hơn, bởi các yếu tố giúp giảm chi phí trong những thập kỷ trước giờ bị đảo ngược. Căng thẳng địa chính trị, chủ nghĩa bảo hộ, phi toàn cầu hóa và dân số già hóa cùng làm chuỗi cung ứng đắt đỏ hơn. Có thể trí tuệ nhân tạo sẽ tăng năng suất, nhưng hiện tại điều đó hoàn toàn chỉ là giả thuyết.
Tất cả điều này khiến các dự báo về suy thoái kinh tế tại Mỹ là khác nhau giữa các chuyên gia kinh tế và lãnh đạo doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo phân tích của WSJ, nếu FED thực sự hạ cánh mềm thành công, kinh nghiệm lịch sử này cho thấy Mỹ có thể tiếp tục đà tăng trưởng 4 hoặc 5 năm nữa trước khi cuộc khủng hoảng (bằng một cách nào đó) thực sự xảy ra.
CABO Team tổng hợp (Theo Bloomberg/Wall Street Journal)