Các vấn đề kinh tế lại là mối quan tâm hàng đầu của cử tri khi còn chưa đầy một năm nữa là đến kỳ bầu cử Tổng thống Mỹ tiếp theo. Bất chấp kinh tế có nhiều khởi sắc sau ảnh hưởng của COVID-19 lẫn lạm phát tăng cao, Tổng thống Joe Biden vẫn gặp khó khi thuyết phục người Mỹ rằng các chính sách của ông tác động tích cực đến “túi tiền” của người dân. Trong các cuộc thăm dò, đa số người Mỹ vẫn đang nghiêng về cách xử lý nền kinh tế có phần “cực đoan” của Donald Trump.
Thành tích về mặt kinh tế của cả hai Tổng thống đều được định hình phần lớn bởi đại dịch và các dư chấn của nó. Cuộc khủng hoảng toàn cầu do COVID-19 tạo ra đã làm đảo lộn thị trường việc làm, đẩy lạm phát lên cao đến mức mất kiểm soát và khoản nợ liên bang tăng thêm hàng nghìn tỷ USD.
Tuy nhiên, Nhà Trắng dưới thời mỗi vị Tổng thống lại để lại các dấu ấn riêng. Ông Biden đã tạo thêm 14 triệu việc làm cho người dân Mỹ chỉ trong vòng chưa đầy 3 năm, giảm hàng tỷ USD nợ sinh viên. Trong khi đó, với khả năng bậc thầy của mội doanh nhân, cựu Tổng thống Trump lại chủ trì một thời kỳ lạm phát, lãi suất và giá xăng đều thấp. Dưới đây là các so sánh cụ thể.
Tình hình việc làm
Thị trường lao động ổn định là chiến thắng lớn nhất của Nhà Trắng xuyên suốt nhiệm kỳ của Tổng thống Biden. Ở một khía cạnh nào đó, điều này đạt được là nhờ đương kim Tổng thống Mỹ nhậm chức ngay thời điểm hàng triệu người mất việc vì đại dịch. Dù vậy, tốc độ tăng việc làm những năm gần đây đã vượt xa kỳ vọng các chuyên gia, thúc đẩy nền kinh tế đang vốn rất yếu ớt do các chính sách đối phó với COVID-19.
Thị trường lao động Mỹ vẫn khỏe bất chấp các chính sách chống lạm phát của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED). Chừng nào người Mỹ còn việc làm, họ vẫn có thể chống chọi với lạm phát, tiếp tục chi tiêu, giúp nền kinh tế phát triển.
Các nhà tuyển dụng tạo ra 14 triệu việc làm xuyên suốt gần 3 năm nhiệm kỳ của Tổng thống Biden. Ở trường hợp còn lại, nền kinh tế Mỹ chỉ tạo ra trung bình 176.000 việc làm mỗi tháng trong 3 năm đầu của Donald Trump, trước khi việc đóng cửa và sa thải hàng loạt do COVID-19 diễn ra ồ ạt, khiến hơn 20 triệu việc làm bốc hơi vào không khí.
Mặc cho các ảnh hưởng không nhỏ của COVID-19 trong phần lớn năm 2020 và 2021, tỷ lệ thất nghiệp ở cả 2 đời Tổng thống Mỹ gần nhất luôn được giữ ở mức thấp. Dưới thời Trump, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống mức thấp nhất 50 năm là 3,5% vào đầu năm 2020, ngay trước đại dịch. Trong nhiệm kỳ của Biden, tỷ lệ này thậm chí giảm hơn nữa, xuống còn 3,4% đầu năm nay, và hiện đã tăng nhẹ lên 3,7%.
Tăng trưởng kinh tế
Về cơ bản, kinh tế Mỹ tăng trưởng ổn định dưới thời Trump và Biden. GDP tăng khoảng 22% kể từ khi Biden nhậm chức, so với mức 14% trong nhiệm kỳ của Trump, khi đại dịch buộc nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái đột ngột. Tuy nhiên, nền kinh tế sau đó nhanh chóng phục hồi ( một phần nhờ vào hàng nghìn tỷ USD tiền kích thích) và tăng trưởng trở lại lúc cựu Tổng thống Trump rời Nhà Trắng.
Dưới thời Biden, nền kinh tế đã ghi nhận 5 quý tăng trưởng liên tiếp sau 6 tháng bết bát của năm 2022. Đà tăng được hỗ trợ bởi chi tiêu tiêu dùng lớn, chiếm khoảng 70% nền kinh tế, cũng như các dự án cơ sở hạ tầng và năng lượng xanh. Nhưng các nhà kinh tế cho rằng tốc độ tăng trưởng hiện không bền vững và sẽ sớm hạ nhiệt nếu các chính sách tiền tệ không được điều chỉnh sớm.
Giá nhiên liệu
Tổng thống Mỹ có rất ít quyền kiểm soát giá nhiên liệu (cụ thể là xăng). Nhưng đây là lĩnh vực mà cựu Tổng thống Trump đã làm tốt hơn rất nhiều. Dưới thời Biden, những trục trặc liên quan đến đại dịch, xung đột quân sự dai dẳng ở Ukraine và nhu cầu tăng đột biến đều khiến giá xăng tăng chóng mặt kể từ năm 2020. Giá xăng tăng hơn gấp đôi từ tháng 4/2020 đến tháng 4/2022, tương đương 1,84 USD lên 4,11 USD một gallon (3,78 lít).
Giá xăng ở Mỹ đạt đỉnh là gần 5 USD một gallon vào tháng 6/2022 và quay đầu giảm từ đó. Các nhà phân tích cho rằng giá xăng có thể giảm xuống dưới 3 USD mỗi gallon cuối năm 2023, do sản lượng tăng và cầu giảm.
Giá nhà
Sở hữu nhà là một trong những cách làm giàu tốt nhất của người Mỹ. Giá nhà tăng gần đây là con dao hai lưỡi. Nhiều người mua nhà lần đầu đã bị loại khỏi thị trường, còn ai đã sở hữu thì hưởng lợi từ sự tăng vọt giá trị tài sản.
Việc sở hữu nhà trở nên khó khăn hơn nhiều dưới thời Biden. Theo Goldman Sachs, giá nhà đã tăng vọt đến 49% từ mùa xuân 2020 đến mùa thu 2022. Chi phí cao hơn khiến khả năng chi trả nhà ở xuống mức thấp nhất mọi thời đại.
Giá nhà trung bình hiện đang rơi vào khoảng 431.000 USD một căn, cao hơn nhiều so với trước đại dịch. Lãi vay mua nhà đã tăng hơn gấp đôi trong 2 năm qua, từ khoảng 3,1% lên khoảng 7%. Tuy nhiên, giá nhà được dự đoán vẫn sẽ bị neo ở mức cao vì cầu vượt cung.
Lạm phát
Lạm phát là thách thức dai dẳng với chính quyền Biden. Giá cả tăng nhanh sau đại dịch dẫn đến lạm phát cao nhất trong hơn 40 năm. Người Mỹ đối diện chi phí tăng với hầu hết mọi thứ, từ hàng tạp hóa, xăng, ôtô đến chăm sóc sức khỏe.
Mặc dù lạm phát đã hạ nhiệt so với mức đỉnh vào mùa hè năm 2022, giá cả hàng hóa vẫn cao hơn khoảng 3% so với một năm trước. Các cử tri luôn cho rằng lạm phát là mối lo ngại kinh tế hàng đầu khi cân nhắc về các ứng viên Tổng thống Mỹ.
Lãi suất
Tổng thống Mỹ có rất ít quyền chi phối lãi suất, bởi Ngân hàng Trung ương Mỹ (FED) là một tổ chức tài chính hoạt động độc lập với chính phủ. Trong nhiệm kỳ của Biden, FED đã tăng lãi suất 11 lần để kiềm chế lạm phát, đưa lãi suất cơ bản lên mức 5,25 – 5,5%, mức cao nhất trong 22 năm.
Mỗi lần Fed tăng lãi, hoặc thậm chí chỉ gợi ý khả năng, cũng đã tạo ra các tác động lên toàn nền kinh tế Mỹ nói riêng và toàn cầu nói chung. Lãi suất điều hành tăng dẫn đến lãi cho các khoản vay cũng tăng, gồm vay thế chấp (hiện ở mức khoảng 7%), vay cá nhân (12%) và thẻ tín dụng (trên 20%).
Thu nhập khả dụng
Trong những năm dưới thời Trump, thu nhập khả dụng – thu nhập thực tế còn lại sau thuế và lạm phát – của người Mỹ tăng đều đặn cho đến khi “cơn bão” mang tên COVID-19 ập đến. Giai đoạn từ tháng 1/2017 đến tháng 1/2020, thu nhập khả dụng của người Mỹ đã tăng khoảng 10%.
Trong khi đó, vào nhiệm kỳ của Biden, tiền kích thích giảm và giá cả tăng cao đã gây ra sự biến động lớn trong thu nhập hộ gia đình kể từ năm 2020. Nhưng nhiều người Mỹ đang khép lại năm 2023 khá giả hơn so với một năm trước, do tăng lương cao hơn lạm phát.
Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán tăng trưởng nhanh trong nhiệm kỳ Trump và tiếp tục đi lên dưới thời Biden. Sau khi bị chậm lại do các lo ngại lạm phát – do dự đoán chi phí vay cao hơn và biến động gia tăng – giá cổ phiếu tăng trở lại nhờ giới đầu tư lạc quan rằng FED đã hoàn tất chu kỳ “thắt lưng buộc bụng”. Chỉ số Dow Jones và Nasdaq đều đạt mức cao nhất mọi thời đại trong tháng 12/2024.
Trump luôn theo dõi chặt chẽ diễn biến của thị trường chứng khoán trong nhiệm kỳ của mình, và thường dùng mạng xã hội để khoe thành tích. Ông từng cảnh báo nhiệm kỳ tổng thống của Biden sẽ dẫn đến “sự sụp đổ của thị trường chứng khoán” chưa từng thấy, đáng tiếc, điều đó đã không xảy ra. “Tốt lắm, Donald”, ông Biden phản pháo gần đây trên X.
Nợ sinh viên
Dư nợ cho vay sinh viên đã tăng lên trong gần 2 thập kỷ qua. Biden nhậm chức với cam kết giảm gánh nặng nợ nần cho sinh viên. Nhưng kế hoạch đầy tham vọng bao gồm việc xóa nợ 400 tỷ USD đã bị các nhà lập pháp đảng Cộng hòa và Tòa án Tối cao chặn lại. Vì vậy, ông tìm các cách khác để hỗ trợ.
Cho đến nay, Nhà Trắng đã xóa nợ vay sinh viên được 132 tỷ USD, cho hơn 3,6 triệu người. Họ cũng tăng trợ cấp cho sinh viên thu nhập thấp và trung bình. Dư nợ vay sinh viên đã giảm trong sáu tháng, còn 1.740 tỷ USD hồi tháng 10, so với mức kỷ lục 1.770 tỷ USD đầu năm.
Tâm lý người tiêu dùng
Bất chấp nền kinh tế có nhiều chuyển biến tích cực, người Mỹ lại tỏ ra chán nản khi nói đến vẫn đề tài chính trong nhiệm kỳ của Biden. Tâm lý người tiêu dùng giảm xuống mức thấp kỷ lục vào tháng 6/2022, khi giá xăng đạt đỉnh.
Mặc dù cảm thấy khó chịu về nền kinh tế, người Mỹ vẫn tiếp tục chi tiêu mạnh tay. Khoản chi tiêu đó – cho nhiều loại hàng hóa và dịch vụ, bao gồm ôtô, du lịch và ăn uống ngoài trời, đã giúp thúc đẩy nền kinh tế.
Thâm hụt liên bang
Thâm hụt liên bang – chênh lệch giữa số tiền chính phủ thu vào và chi ra – đạt đỉnh dưới thời Trump, mặc dù cả ông và Biden đều đã làm tăng thêm hàng nghìn tỷ USD nợ quốc gia. Thâm hụt liên bang tăng đều hàng năm trong nhiệm kỳ tổng thống của Trump. Việc cắt giảm thuế rộng, sau đó là phản ứng của chính phủ đối với đại dịch, đã làm tăng thêm khoản nợ chính phủ lên 7.800 tỷ USD.
Kể từ đó, thâm hụt đã thu hẹp trong 2 năm đầu nhiệm kỳ của Biden. Tuy nhiên, trong năm 2023, nó lại tăng 23%, lên 1.700 tỷ USD. Thâm hụt ngày càng tăng kết hợp với tình trạng rối loạn chính trị tại Quốc hội đang gióng lên hồi chuông cảnh báo cho các cơ quan xếp hạng tín nhiệm. Tháng 8, Fitch Ratings đã tước đi điểm AAA của Mỹ. Tháng 11, Moody’s hạ triển vọng về nợ công, cảnh báo “sự phân cực chính trị tiếp tục” đe dọa sức mạnh tài chính của nền kinh tế lớn nhất thế giới.
CABO Team tổng hợp